Vua Ba Lan Jan_I_Olbracht

Năm 1492, Jan kế thừa vương vị của cha ông là Casimir IV Jagiellon nhờ sự giúp đỡ của em trai là Tổng giám mục Krakow Frederick Jagiellon; trong khi đó em trai là Alexander Jagiellon được phong làm Công tước Lithuania.

Chính sách trong nước

Những khởi đầu của Quốc hội Ba Lan (hay Nghị viện Ba Lan)

Trong những thập kỷ đầu khi Triều đại Jagiellon thống trị Ba Lan, hội đồng hoàng gia do vua chỉ định, đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc quản lý nhà nước. Và từ giữa thế kỷ XV, phần lớn quyền lực của nhà vua đều rơi vào tay hội đồng hoàng gia và Nghị viện. Cuối cùng, Hội đồng Hoàng gia dưới thời trị vì của Olbracht đã được biến thành Thượng viện, các quý tộc Ba Lan tập hợp trong các đại hội của Nghị viện. Đến cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, Thịnh vượng chung trở thành một chế độ quân chủ nghị viện cao quý. Phiên họp đầu tiên của Quốc hội diễn ra tại Piotrków (ngày 18 tháng 1 năm 1493) và người giàu có nhất và nhân từ thì được bầu làm quốc vương. Theo cuộc họp Nghị viện năm 1501, chính quyền trung ương ngoài vua ra sẽ có Tể tướng, Đại tướng quân, Tòa án.... thay nhà vua quản lý đất nước trong lúc ông đi vắng.

Đặc quyền của quý tộc với quốc vương

Ngay sau khi lên ngôi, Jan I Olbracht xác nhận tất cả các đặc quyền trước đây của giới quý tộc với điều kiện họ phải đóng thuế đầy đủ cho nhà nước. Mở rộng những đặc quyền mà cha ông đã dành cho giới quý tộc trong đạo luật Nieszawa, Jan I Olbracht ra đạo luật Piotrków cho phép quý tộc miễn trừ các nhiệm vụ hải quan (tức buôn bán), giới hạn sự di cư của nông dân đến một năm một lần ở nông thôn và cấm các địa chủ mua lại các khu đất. Các giáo sĩ không có gốc từ quý tộc thì bị cấm vào nhà thờ và giữ các chức vụ cao trong nhà thờ. Việc học tập của quý tộc bị hạn chế tối đa.

Jan Olbracht cũng giới hạn vai trò của Giáo Hội trong vương quốc khi cấm các giáo sĩ bán hàng và quyên góp các vật dụng từ tín đồ để phục vụ cho mục đích tôn giáo.

Chính sách đối ngoại

Masovia và công quốc Zatorze

Năm 1494, Jan Olbracht đã thành công trong việc mua lại vùng đất Cracow và công quốc Oświęcim, công quốc Zatorze với giá 80.000 zlotys Hungary. Sau cái chết của công tước Jan V của Zatore, công quốc Zatorze được sáp nhập vào Ba Lan. Năm 1495, công tước Janusz II của Plock qua đời và công quốc này cũng bị sáp nhập vào Ba Lan.

Chiến tranh Ba Lan - Đế chế Ottoman

Vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ là vấn đề chính của chính sách đối ngoại trong triều đại của Jan Olbracht. Nhà vua có kế hoạch tấn công Moldavia để làm bàn đạp tấn công các cảng biển của Ottoman ở Biển Đen là Kilia và Bialogrod, phục hồi uy quyền Ba Lan trên Moldova. Năm 1497, 40.000 quân Ba Lan di chuyển về phía đông nam vào Moldavia. Cuộc vây hãm Suceava thất bại và nối tiếp là tại trận Kozmin, quân Tatars đại thắng và giết khoảng 5.000 hiệp sĩ người Ba Lan.

Thất bại của chiến dịch Moldavia làm uy tín của nhà vua xuống dốc và các đối thủ liên minh với nhau để chống lại Ba Lan. Được Ottoman hỗ trợ, quân Wołochów khởi sự chiến tranh với Ba Lan. Vào mùa xuân năm 1498, quân Tatars xâm chiếm lãnh thổ phía đông nam của Lithuania, và Công tước Moscow, Ivan III của Nga cố gắng kiểm soát Kiev và Smolensk. Đến năm 1500, Công tước Moscow đánh tan quân đội Ba Lan-Litva trong Trận chiến Wiedrosza. Tiếp đến, Hoàng đế Maximilian I của đế quốc La Mã Thần thánh trong lúc đánh chiếm một phần của Silesia với Głogów, đã kêu gọi Hiệp sĩ Teuton và công tước Phổ hỗ trợ.

Đến mùa xuân năm 1501, Jan I Olbracht ra lệnh tập trung quân đội tại Toruń để chuẩn bị tiến quân, nhưng ông bất ngờ bị mắc bênh truyền nhiệm (có thể là bệnh giang mai) rồi qua đời tại đây. Ông không kết hôn hoặc để lại bất kỳ hậu duệ nào. Sau cái chết của vua Jan Olbracht, ngai vàng đã được tiếp quản bởi em trai của mình là Alexander Jagiellon